Chủ Nhật, 10 tháng 6, 2012

Bài 22: Khải huyền 4:1: "Sẽ Được Dời Đi Một Trong Những Ngày nầy"



Khải huyền 4:1
SẼ ĐƯỢC DỜI ĐI,
MỘT TRONG NHỮNG NGÀY NẦY
Phần giới thiệu: Khi chúng ta bước sang chương 4 của sách Khải huyền, chúng ta đang đi vào một xứ thật lạ lùng. Chúng ta mới rời khỏi quá khứ khi chúng ta xử lý với 7 Hội Thánh ở Tiểu Á. Tuy nhiên, trong khi chúng ta nghiên cứu các Hội Thánh đó, chúng ta đã đạt tới chỗ hiểu biết, trong thực tế, chúng ta đã hiểu biết rất nhiều trong hiện tại. Giờ đây, khi chúng ta đến với chương nầy, chúng ta sắp sửa bước vào cõi tương lai.
            Chương nầy, và chương nối theo sau đưa chúng ta đến tận gian phòng có chứa ngai của Đức Chúa Trời, ở đó chúng ta có thể nhìn thấy bản thân mình và những gì chúng ta sẽ lo làm khi chúng ta vào trong Thiên đàng. Sau đó, mục tiêu của chúng ta sẽ nhắm vào đất cho tới khi chúng ta đến với chương 21.
            Cái điều tôi muốn bạn phải hiểu rõ, ấy là Khải huyền 4:1 là một câu rất đặc biệt. Thực vậy, nếu bạn không hiểu câu nầy, thì bạn không thể hiểu phần còn lại của quyển sách. Nếu bạn lẫn lộn ở đây, bạn sẽ lạc lối so với phần còn lại của quyển sách quan trọng nầy. 
            (Minh họa: Có bao giờ bạn cài khuy áo sơmi của mình, khi lần xuống tới khuy sau cùng thì thấy bạn không có lỗ khuy để cài nút vào không? Vì thế, bạn lần trở lại thì thấy điều gì xảy ra và bạn thường thấy nan đề của mình khởi sự ngay từ đầu. Nếu cái nút bên phải không nằm đúng chỗ với lỗ khuy cho nút bên phải, bạn đang gặp rắc rồi rồi. Có những việc không thể đổi đúng lại được! Cũng thật như thế với quyển sách nầy).
            Một khi câu nầy quan trọng như thế, tôi muốn dành chút thì giờ rồi lược qua nó thật chi tiết hôm nay.  Giờ đây, tôi không biết bạn có biết điều nầy hay không, nhưng câu nầy toàn nói về cõi tương lai của chúng ta. Nó nói cho chúng ta biết về cái ngày khi tất cả con cái của Đức Chúa Trời sẽ cùng nhau rời khỏi trần gian nầy. Tôi muốn chỉ cho bạn thấy những sự kiện, y như chúng được trình bày trong câu nầy, và tôi muốn rao giảng với tư tưởng Sẽ Được Dời Đi, Một Trong Những Ngày Nầy.
I. TẦM QUAN TRỌNG CỦA CÂU NẦY
A. Đây là câu chuyển tiếp Hãy chú ý, câu nầy bắt đầu với cụm từ kế đó và nó kết thúc với cụm từ sau nầy(theo bản Kinh Thánh Anh ngữ). Trong bản Hylạp, mấy từ ngữ nầy chính xác giống nhau. Cả hai từ Anh ngữ nầy dịch theo chữ Hylạp meta tauta.
            Bây giờ, đây không phải là lần đầu tiên chúng ta gặp gỡ cụm từ nầy trong sách Khải huyền. Quay nhìn lại ở  Khải huyền 1:19. Meta tauta cũng có ở đây nữa! Giăng  được truyền cho phải ghi ra ba điều khác nhau: những sự ngươi đã thấy, những việc nay hiện có và những việc sau sẽ đến. Có cụm từ của chúng ta ở đây. Chính cụm từ Hylạp meta tauta gắn chặt mấy câu nầy lại với nhau.
            Những gì chúng ta có ở Khải huyền 1:19 là phần tóm tắt cơ bản của sách Khải huyền.
những sự ngươi đã thấy chỉ ra các biến cố của chương 1.
những việc nay hiện có chỉ ra những biến cố của các chương 2-3, hay các thư tín gửi cho 7 Hội Thánh. Hãy chú ý cụm từ sau cùng của chương 3: Ai có tai, hãy nghe lời Đức Thánh Linh phán cùng các Hội thánh!Khải huyền 3:22. Các biến cố nầy bao trùm lấy phần lịch sử của Hội Thánh hiện hữu kể từ thời các Sứ đồ cho tới phần cuối của kỷ nguyên Hội Thánh.
những việc sau sẽ đến chỉ ra các biến cố sẽ xảy ra sau khi kỷ nguyên Hội Thánh kết thúc.  Các chương 4 và 5 tìm gặp các thánh đồ được chuộc của Đức Chúa Trời ở trên trời, trong sự hiện diện của Ngài, họ đang thờ lạy Ngài ở đó. Các chương 6-19 xử lý với thời kỳ Đại Nạn và với cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời khi Ngài phán xét thế gian tội lỗi nầy và luyện lọc Israel dân sự Ngài.
            Vì vậy, Khải huyền 4:1 là một câu rất quan trọng cần phải hiểu rõ nếu chúng ta tiếp tục trên đường trải ngang qua sách nầy. Điều nầy cũng rất quan trọng vì nó chỉ ra thời kỳ chuyển tiếp cho dân sự của Chúa. Sau thời điểm nầy, Hội Thánh không còn được nhắc tới như đang hiện hữu ở trên đất nữa.
            Câu nầy cho chúng ta biết về thời buổi ấy khi chúng ta đang hướng tới vùng đất vinh hiển! Tôi chẳng biết bạn sẽ như thế nào, nhưng tôi sẽ hướng tới ngày ấy!
B. Đây là câu nói rất đặc thù Câu nầy cho chúng ta biết về một người, là Giăng, được gọi lên trên Thiên đàng. Chỉ có một người được dùng, chỉ có Giăng mà thôi. Nhưng, trong câu nầy, Giăng trở thành một nhân vật đại diện. Ông mô tả những gì sẽ xảy ra cho hết thảy các tín đồ nào còn đang sống ở trên đất khi Chúa Jêsus tái lâm để đón dân sự Ngài trong Sự Cất Lên.
            Bây giờ, tôi không muốn bỏ qua phần còn lại của sứ điệp, nhưng biến cố nầy được gọi là Sự Cất Lên rất là quan trọng. Khi Sự Cất Lên xảy ra, vài biến cố sẽ được thể hiện.
+ Cô Dâu của Đấng Christ sẽ được cất ra khỏi thế gian nầy, I Têsalônica 4:16-18. (Minh họa: Sự Cất Lên được gọi là “sự trông cậy hạnh phước”, Tít  2:13.  Cảm tạ Đức Chúa Trời vì sự trông cậy ấy!)
+ Thánh Linh của Đức Chúa Trời sẽ được dời ra khỏi thế gian nầy, II Têsalônica 2:7.
+ Thế gian loạn nghịch, tội lỗi nầy sẽ bị dìm trong Kỳ Đại Nạn, Khải huyền 24:21.
            Vì vậy, câu nầy đứng như một điển hình, hay như một bức tranh nói tới những gì sẽ xảy ra khi chúng ta tái lâm để đón rước con cái của Ngài. Có phải bạn đã sẵn sàng cho ngày ấy không? (Mathiơ 24:44)
II. NHỮNG MINH HỌA CỦA CÂU NẦY
(Minh họa: Sách Khải huyền là quyển sách đầy dẫy với những dấu hiệu, biểu tượng và minh họa. Trở lại ở  Khải huyền 1:1, Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng “He sent and signified it(Ngài đã sai và tỏ điều đó).  Hãy lấy chữ “signified(tỏ) rồi phân tách chữ ấy xem. Nếu bạn phân tách, nó sẽ trở thành “sign-i-fied”.  Nói khác đi, Chúa nói cho Giăng biết rằng Ngài sẽ tỏ ra một số nội dung của sách nầy qua những dấu hiệu và biểu tượng.
            Nếu bạn đã đọc sách Khải huyền, bạn biết rõ điều nầy là rất thật rồi. Chúa Jêsus được minh họa là “Chiên Con”. Các thánh đồ được chuộc, họ được minh họa là “hai mươi bốn trưởng lão”. Thành Jerusalem Mới được minh họa là “cô dâu”. Antichrist được gọi là “con thú”. Có nhiều trường hợp khác có thể được đề ra.
            Việc sử dụng các biểu tượng không làm thay đổi những gì Đức Chúa Trời phán dạy; mọi sự Ngài phán dạy sẽ thành hình từng điều một. Ngài chỉ sử dụng ngôn ngữ biểu tượng để mô tả các sự cố hiển nhiên. Ngài sử dụng các biểu tượng để người ta trong các thế hệ sẽ có thể hiểu được Ngài muốn nói gì. Có hai biểu tượng hay minh họa được đưa ra để khích lệ chúng ta trong câu nầy. Chúng ta hãy xem xét chúng hôm nay).
A. Liên quan đến đôi mắtGiăng  nói rằng ông nhìn thấy một cái cửa mở ra trên trời. Cụm từ nầy sát nghĩa có ý nói rằng có một cánh cửa đang mở ra ở trên trời. Đây là cánh cửa thứ ba chúng ta đã gặp trong sách Khải huyền. Chúng ta hãy ôn lại những cánh cửa mà chúng ta đã gặp rồi.
Cánh cửa phục vụ - Khải huyền 3:8 Hội Thánh ở Philađenphia được truyền cho biết: ta đã mở trước mặt ngươi một cái cửa không ai đóng được. Đây là cánh cửa cơ hội và phục vụ của Tin Lành.  Đây là một Hội Thánh tùy thuộc vào Kinh Thánh và bước theo ý chỉ của Chúa, Ngài sẽ đặt trước mặt Hội Thánh ấy một cánh cửa mở cho công cuộc truyền giáo. Ngài đang làm như thế với Hội Thánh của chúng ta trong thời buổi nầy!
Cánh cửa cứu rỗiKhải huyền 3:20 Những người ở Laođixê được mời mở cửa lòng của họ ra để mời Chúa Jêsus ngự vào trong. Tấm lòng của kẻ bị mất đã khép kín đối với Chúa Jêsus, nhưng nếu nó được mở ra, Ngài sẽ bước vào và Ngài sẽ cứu linh hồn bị mất đó.
(Minh họa: Trong phân đoạn Kinh Thánh của chúng ta, cánh cửa trên trời cho thấy nó đang “mở ra”. Thì của động từ cho thấy cánh cửa nầy đã mở ra và nó tiếp tục mở ra cho hết thảy những ai muốn bước vào trong. Bây giờ, chúng ta biết cánh cửa là Đấng nào rồi. Ở Giăng 10:9, Chúa Jêsus tự đồng hóa chính mình Ngài là “cửa”. Ngài là con đường duy nhứt dẫn tới Thiên Đàng! Con người không lên Thiên Đàng qua cánh cửa của nhà thờ, bất chấp danh nghĩa nào trên cánh cửa đó. Con người không bước vào Thiên Đàng qua mọi việc lành của họ. Họ không bước vào  bằng chính năng lực riêng của họ. Cánh cửa duy nhứt bước vào sự cứu rỗi và Thiên Đàng là Đức Chúa Jêsus Christ. Ngài là  Đấng đã chịu chết; Đấng đã sống lại; Đấng đã trả cái giá cho sự cứu rỗi của chúng ta. Ngài là con đường duy nhứt dẫn tới Đức Chúa Trời, Giăng 14:6!
            Ngày nay, cánh cửa ấy đang rộng mở. Nó sẽ cho phép “hễ ai muốn” bước vào rồi tìm được sự bình an, sự yên nghỉ, sự cứu rỗi và Thiên Đàng. Nhưng, khi Chúa gọi dân sự Ngài về quê hương ở Thiên Đàng, cánh cửa cứu rỗi sẽ đóng lại. Con người vẫn sẽ được cứu sau Sự Cất Lên, nhưng chỉ có những người nào chưa hề nghe Tin Lành sẽ có cơ hội đó, II Têsalônica 2:11
(Minh họa: 10 người nữ đồng trinh ở Mathiơ 25:1-13, năm người đã thất bại không biết sửa soạn và đến lúc họ đã sẵn sàng, thì cửa đã đóng lại, Mathiơ 25:10. Thật là dại dột khi để thời gian trôi đi, lơ là với linh hồn đời đời của bạn. Nếu bạn cứ chờ đợi để bước qua cánh cửa cứu rỗi, đừng đợi nữa, thì giờ bước vào sẽ trôi qua cho đến đời đời không bao lâu nữa, II Côrinhtô 6:2; Châm ngôn 27:1).
Cánh cửa gọi mờiKhải huyền 4:1 Cánh cửa mở nầy trên trời trở thành cánh cửa gọi mời. Người nào được cứu một ngày kia sẽ được gọi lên bước qua cánh cửa mở mà vào trong Thiên Đàng.
Cánh cửa huy hoàngKhải huyền 19:11 Một ngày kia Thiên Đàng sẽ được mở ra trở lại. Lần nầy nó sẽ không cho phép người ta bước vào trong đâu; nó sẽ mở ra để cho Chúa Jêsus tái lâm trên đất nầy với Hội Thánh của Ngài. Ngài sẽ trở lại trong huy hoàng, quyền phép và vinh hiển để dập tắt điều ác và thiết lập Vương quốc của Ngài.
B. Liên quan đến hai lỗ tai Không những Giăng  đã nhìn thấy một cánh cửa; Giăng còn nghe tiếng loa nữa! Đây là lối nói của biểu tượng. Ông nói: “và tiếng thứ nhất mà tôi đã nghe nói với tôi, vang rầm như tiếng loa”. Những gì Giăng đã nghe không phải là một tiếng kèn cụ thể đâu, mà là một tiếng ồn giống như tiếng của loa vậy: chọc thủng, lớn tiếng và đòi hỏi sự chú ý.
            Những tiếng loa rất là quan trọng trong sinh hoạt của Israel xưa kia. Dân số ký 10:1-10 cung ứng những huấn thị của Đức Chúa Trời cho sự sử dụng các tiếng loa trong Israel. Họ cần phải làm hai cây kèn bằng bạc. Có những loại kèn khác nhau trổi lên cho những sự cố khác nhau. Những cây kèn cần được thổi lên khi đến lúc dỡ trại quân rồi dời đi. Những tiếng loa thổi lên để công bố các thứ của lễ trong những ngày lễ lạc. Những tiếng loa thổi lên triệu tập các thầy tế lễ đến Đền Tạm. Những tiếng loa đã được sử dụng như một báo động trong lúc có chiến tranh hay nguy hiểm. Tiếng loa rất quan trọng, dân chúng lắng nghe tiếng loa khác nhau khi chúng được thổi lên, và người thổi kèn phải thổi cho đúng âm điệu, I Côrinhtô 14:8. 
(Lưu ý: Tiếng kèn cũng được nhắc tới trong Tân Ước, đặc biệt khi được kết nối với các biến cố trong kỳ tận thế. Hãy nhìn vào I Têsalônica 4:16. Câu nầy cho chúng ta thấy rằng sẽ có tiếng kèn thổi lên báo hiệu Sự Cất Lên. I Côrinhtô 15:52 cũng nói tới âm điệu của tiếng kèn khi kết nối với Sự Cất Lên.  Bạn có nhìn thấy sự kết nối ấy không?
            Sự thể cho thấy rằng Đức Chúa Trời sẽ sử dụng tiếng kèn làm dấu hiệu cho dân sự Ngài biết khi đến lúc phải rời đi. Tôi không nghĩ thế gian nầy sẽ nghe được tiếng ấy, nhưng chúng ta đã được cấy cho với thiết bị nghe thật đặc biệt trong giờ phút chúng ta được cứu.
            Khi tiếng kèn ấy trổi lên, đấy sẽ là thời điểm dỡ trại rồi bước vào sự vinh hiển! Khi tiếng kèn ấy trổi lên, nó sẽ cho biết sự công bố chiến tranh đối với tội lỗi và hệ thống thế gian gian ác nầy. Một trong những ngày nầy, tiếng kèn sẽ trổi lên với âm thanh và các thánh đồ sẽ để thế gian nầy lại sau lưng cho đến đời đời!  Halêlugia!)
(Lưu ý: Giăng nói rằng kèn nầy là một “tiếng”. Tôi lấy làm lạ không biết có phải đây là tiếng của Chúa kêu gọi dân sự Ngài hay không nữa. Ở I Têsalônica 4:16, Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng Vì sẽ có tiếng kêu lớn và tiếng của thiên sứ lớn cùng tiếng kèn của Đức Chúa Trời, thì chính mình Chúa ở trên trời giáng xuống. Khi Chúa Jêsus đến, tiếng kèn ấy sẽ gọi người sống lên, nhưng chính tiếng kêu lớn của Ngài sẽ gọi người chết đến. Hãy nhìn vào Tân Ước, mỗi lần Chúa Jêsus hô lớn tiếng lên trong Kinh Thánh, thì có một sự sống lại!
+ Ngài kêu một tiếng lớn nơi mộ của Laxarơ và người lại sống – Giăng  11:43.
+ Ngài kêu lên một tiếng lớn tại đồi Gôgôtha và có nhiều thánh đồ đã chết được sống lại – Giăng  19:30; Mathiơ 27:50-53.
+ Ngài sẽ kêu một tiếng lớn lúc có Sự Cất Lên và tất cả người được chuộc sẽ nghe thấy tiếng của Ngài rồi ra khỏi mồ mả– I Têsalônica 4:13-18).
            Tôi không biết Chúa Jêsus sẽ nói gì Ngài Ngài hiện đến. Có thể Ngài nói: “Hãy lên đây!”  Có thể Ngài phán: Hãy đến đây!Có thể Ngài phán: Hãy về quê hương đi! Bất luận Ngài phán điều gì trong ngày ấy, tiếng của Ngài sẽ khiến cho mồ mả phải thả lỏng cái nắm chặt của nó trên các thân thể nầy, chúng ta sẽ được biến đổi ra giống như ảnh tượng của Ngài, rồi chúng ta sẽ bay về quê hương của chúng ta ở trên trời. 
III. NHỮNG HÀM Ý CỦA CÂU NẦY
(Minh họa: Có một dòng sông vinh hiển chảy suốt qua câu Kinh Thánh quí báu nầy. Chúng ta đừng bỏ qua những hàm ý của câu nầy cho đời sống của chúng ta).
A. Nó nói tới một sự giải cứu Giăng được thuật cho biết rằng ông sẽ nhìn thấyđiều sau nầy phải xảy đến. Ông đang đề cập tới những việc tương lai. Sẽ chẳng còn bao lâu nữa cho tới khi chúng ta chuyển sang Khải huyền chương 6 và hơn nữa. Khi chúng ta đến đó, chúng ta sẽ gặp gỡ các chi tiết của những biến cố rất đỗi khủng khiếp và không sao hiểu nổi. Khi chúng ta đến với chương 6, chúng ta sẽ chứng kiến một phần mô tả rất cụ thể về các biến cố của Kỳ Đại Nạn.
            Tôi nghĩ sự việc rất đáng kể, ấy là khi Giăng được dẫn lên trời trước khi Kỳ Đại Nạn bắt đầu. Như tôi đã nhắc tới, Giăng là một nhân vật đại diện. Ông phác họa cho Hội Thánh và sự di dời của Hội Thánh ra khỏi thế gian nầy trước khi những điều khủng khiếp của Kỳ Đại Nạn bắt đầu mở ra.
            Đấy chính xác là những gì Sự Cất Lên của Hội Thánh nói tới. Đó là một sứ mệnh giải cứu! Hãy nhìn vào I Têsalônica 4:17. Phaolô sử dụng từ ngữ cất lên (caught up) để mô tả cái điều chúng ta gọi là Sự Cất Lên. Thực vậy, từ ngữ Cất Lên (Rapture) không xuất hiện trong Kinh Thánh. Giờ đây, đừng để cho sự ấy làm cho bạn phải nao núng, vì từ ngữ grandfather(ông nội) cũng đâu có đâu.  Có  “ông nội” nào ở đây đâu? Từ ngữrapture(cất lên) là một sự dịch thuật tiếng Latinh của từ Hylạp harpazo, từ nầy được dịch là cất lên” (caught up) trong I Têsalônica 4:17.
            Từ ngữ harpazo sát nghĩa có ý nói túm lấy; chụp lấy bởi sức mạnh. Nếu bạn nhìn thấy con mình sắp bị chiếc xe hơi kia đụng phải, bạn chạy ra rồi túm lấy đứa trẻ ra khỏi con đường của chiếc xe đang chạy tới, cứu lấy mạng sống của nó, thế thì bạn có ý nghĩa của từ ngữ nầy rồi đó. Nó có ý tưởng giải cứu ra khỏi nguy hiểm.
            Có một thời kỳ khủng khiếp rất nguy hiểm sẽ xảy đến trên đất. Đức Chúa Trời sẽ kéo dân sự Ngài ra và Ngài cũng sẽ kéo Thánh Linh của Ngài ra khỏi đó nữa. Ngài sẽ cắt đứt hết mọi quan hệ giao tiếp với thế gian nầy. Khi ấy, Ngài sẽ tuyên chiến với tội lỗi và với hạng tội nhân. Ngài sẽ đem Hội Thánh ra trước khi thời điểm ấy xảy đến.
            Có người tin rằng Hội Thánh sẽ có mặt ở đây để chịu Đại nạn. Họ nói Hội Thánh rất ô uế và bất khiết đến nỗi Đức Chúa Trời sẽ bỏ nó lại đây để thanh tẩy trong thời kỳ ghê khiếp đó. Cho phép tôi hỏi mấy người đó một câu: Kỳ Đại Nạn sẽ làm gì cho Hội Thánh mà huyết của Chúa Jêsus không thể làm chứ?
            Phải, có tội lỗi và hạng tội nhân trong Hội Thánh, nhưng khi chúng ta được cất lên; chúng ta sẽ đối diện với Chúa Jêsus tại Ngai Phán Xét của Đấng Christ. Chúng ta sẽ trình sổ mọi việc làm và đời sống của chúng ta, nhưng tội lỗi đã được trả giá rồi tại đồi Gôgôtha! Hãy ngợi khen danh của Ngài!
            Cho phép tôi chia sẻ vài lý do tại sao tôi tin Hội Thánh sẽ được cứu trước khi Kỳ Đại Nạn bắt đầu.
+ Sự cứu rỗi của chúng ta đã giải cứu chúng ta ra khỏi cơn thạnh nộ của Ngài, I Têsalônica 1:10; 5:9.
+ Chúng ta đang tìm kiếm sự trông cậy hạnh phước, chớ không tìm kiếm những điều ghê khiếp của kỳ Đại Nạn, Antichrist và cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời, Tít 2:13.
+ Các kiểu cách trong Kinh Thánh cho thấy rằng chúng ta sẽ được đưa ra khỏi trước Sự Cất Lên – Hê-nóc đã được cất đi trước khi Nước Lụt, Sáng thế ký  5:24; Lót đã được đưa ra khỏi trước khi thành Sôđôm bị hủy diệt, Sáng thế ký 19:22. Có một khuôn mẫu rất rõ ràng. Đức Chúa Trời di dời dân sự Ngài trước khi Ngài tỏ ra cơn thạnh nộ của Ngài.
+ Một minh chứng khác được thấy có ở Khải huyền 2:7, 11, 17, 29; 3:6, 13. 22. Trong mấy câu nầy, Chúa Jêsus sử dụng câu nói nầy: Ai có tai, hãy nghe lời Đức Thánh Linh phán cùng các Hội thánh”. 
+ Bây giờ, hãy nhìn vào Mathiơ 13:9, 43, ở đây Chúa Jêsus phán: Ai có tai, hãy nghe! Không có nhắc tới Thánh Linh hay về các Hội Thánh. Tất nhiên, điều nầy có trước khi Hội Thánh được hình thành và trước khi Đức Thánh Linh được ban cho.
+ Bây giờ, hãy nhìn vào Khải huyền 13:9. Câu nầy chép: Ai có tai, hãy nghe! Có phải bạn nhìn thấy sự khác biệt không? Chúa Jêsus không nhắc tới cả Đức Thánh Linh và Hội Thánh, tại sao chứ? Vì cả hai đều đã được dời đi khi có Sự Cất Lên. Hãy ngợi khen Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ không có mặt ở đây để chịu Cơn Đại Nạn đâu!
(Minh họa: Những gì chúng ta nhìn thấy ở đây đúng là những gì xảy ra trong thế giới của chúng ta khi chiến cuộc nổ ra giữa hai quốc gia. Khi sự thù nghịch bắt đầu dấy lên, việc đầu tiên mà một quốc gia phải làm là triệu đại sứ của mình về nhà. Hội Thánh là khâm sai của Đức Chúa Trời cho thế gian nầy, II Côrinhtô 5:20. Trước khi Ngài tuyên chiến ở trên đất, Ngài sẽ kêu gọi dân sự Ngài về quê nhà ở với Ngài! Cảm tạ Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ được dời đi trước khi điều tệ hại nhất xảy đến!)
(Minh họa: Cách đây mấy năm, khi Billy Graham đến giảng đạo ở Đại học đường Hawaii, ông đang nói tới sự tái lâm của Chúa, và một sinh viên đến nói với ông: “Thưa ông Graham, vấn đề nói tới sự tái lâm dường như là thoát ly với thực tế đối với ông không?” Và Billy Graham đáp: “Có lẽ thế đấy, nhưng, anh bạn trẻ kia ơi; trước khi Satan cùng nếm trải với thế giới xưa cũ nầy, hết thảy chúng ta đã tìm được những dấu hiệu thoát ra khỏi rồi”.
            Tôi đồng ý với câu nói đó! Một trong những ngày nầy, chúng ta sẽ rất sung sướng trước sự thực Chúa Jêsus đang đưa chúng ta ra khỏi đây trước khi những việc trở nên tồi tệ thực sự. Thế giới nầy đang tồi tệ hôm nay, chúng ta chưa nhìn thấy điều chi quan trọng sao!)
B. Nó nói tới một nơi đến Không những có mặt và được cứu thoát, hãy ngợi khen Đức Chúa Trời, cũng sẽ có một lối vào nữa! I Têsalônica 4:17 chép: như vậy chúng ta sẽ ở cùng Chúa luôn luôn.  Anh chị em ơi, khi chúng ta trải đi từ thế gian nầy qua cánh cửa mở vào các từng trời, chúng ta sẽ về quê hương. Chúng ta đang hướng tới nơi chốn ấy mà Chúa Jêsus đã hứa sửa soạn sẵn cho chúng ta, Giăng 14:1-3.
            Khi chúng ta đến tại nơi ấy, chúng ta sẽ hiệp với các thánh đồ thuộc mọi thời đại trước sự hiện diện của Chúa trong thành của Ngài! Hãy hình dung các thánh đồ trong thời Cựu Ước và các thánh đồ thời Tân Ước hết thảy đều hiệp với nhau trong thành ấy. Hãy tưởng tượng những nhà tuận đạo của mọi thời đại; những nhà truyền đạo; những tín đồ trung tín trong Hội Thánh, hết thảy đều hiệp cùng nhau trong sự vinh hiển! Hãy tưởng tượng thành ấy xem, tự do không bị rủa sả của đời nầy; tự do không có sự chết; tự do không có khổ đau; và tự do không có tội lỗi, Khải huyền 21:4, 8, 27. Hãy tưởng tượng việc nhìn thấy Chúa Jêsus, Đức Chúa Cha, và Đức Thánh Linh xem, Khải huyền 22:4. Hãy tưởng tượng ngày ấy khi chúng ta về đến quê hương! Phải, một ngày kia, chúng ta sẽ không phải tưởng tượng nữa, vì chúng ta sẽ có mặt ở đó!
(Minh họa: Jim Hill đã đúng khi đặt bút viết trên giấy, rồi ghi ra mấy lời nầy:
Đúng là ngày ấy 
Sẽ có một ngày khi chẳng có một cơn đau đầu nào nữa. Chẳng có đám mây nào trên bầu trời, chẳng có giọt lệ nào làm mờ con mắt nữa. Mọi sự là bình an cho đến đời đời trên bờ vàng hạnh phước đó. Đúng là một ngày, một ngày thật vinh hiển.

Giai điệu:
Đúng là ngày mà tôi sẽ nhìn thấy Chúa Jêsus. Và tôi nhìn thấy mặt Ngài, là Đấng đã cứu tôi bởi ân điển Ngài. Khi Ngài nắm lấy tay tôi dẫn tôi qua vùng Đất Hứa. Đúng là một ngày, một ngày thật vinh hiển.

Sẽ chẳng có buồn rầu, sẽ chẳng có gánh nặng nào phải mang nữa. Chẳng còn có bịnh tật, chẳng có đau khổ, chẳng còn có chia lìa ở đó nữa. Và tôi sẽ ở với Đấng đã chịu chết vì tôi cho đến đời đời. Đúng là một ngày, một ngày thật vinh hiển.
Phần kết luận: Có một số ngày rất phấn khích ở trước mặt cho Hội Thánh! Chúng ta sắp sửa để thế gian nầy lại sau lưng cho đến đời đời. Đấy là sứ điệp của câu nầy! Câu Kinh Thánh nầy nói: Chúng ta sắp sửa được dời đi, một trong những ngày nầy! 
            Thắc mắc tôi có cho bạn là đây: Có phải bạn đang ở trong câu Kinh Thánh nầy không? Giăng đã được gọi lên trời, một ngày kia từng con cái được cứu của Đức Chúa Trời cũng sẽ được gọi lên nữa đấy. Bạn có ở trong số đó không? Khi Chúa đến và cất Hội Thánh của Ngài lên, liệu bạn có đi với Ngài, hay có phải bạn sẽ bị bỏ lại sau để đối mặt với cơn Đại Nạn?
            Nếu bạn đã được cứu, thế thì hãy ngợi khen danh của Ngài, có một ngày lớn sắp sửa đến. Nếu bạn chưa được cứu, thế thì hãy đến với Chúa Jêsus ngay tối nay, đang khi còn có hy vọng, và được cứu trước khi quá trễ.
            Chúa phán gì với tấm lòng bạn hôm nay vậy? Nếu có những nhu cầu, thế thì bạn hãy đến khi Ngài đang kêu gọi.



Bài 21: Khải huyền 3:14-22: "Laođixê, Ngươi Làm Ta Phát Ốm"



Khải huyền 3:14-22
LAO-ĐI-XÊ,
NGƯƠI LÀM TA PHÁT ỐM!
Phần giới thiệu:  Đúng là rất tốn thời gian, nhưng rốt lại chúng ta đã đến với Hội Thánh sau cùng trong bảy Hội Thánh của sách Khải huyền. Có chừng hai trong số các Hội Thánh nầy là Hội Thánh tốt, nhưng khi nhìn vào hầu hết các Hội Thánh nầy, chúng ta thấy một số nan đề rất trầm trọng. Mặt trượt xuống bắt đầu với sự đánh mất tình yêu ban đầu ở Êphêsô dẫn tới sự bội đạo ở Lao-đi-xê. Hội Thánh nầy đã trượt xa khỏi những gì Chúa đã mong muốn nó phải trở thành, điều đó khiến cho Ngài phải phát ốm.
            Trước khi chúng ta đào sâu vào mấy câu nầy, tôi muốn nhắc cho bạn nhớ số thư tín nầy gửi cho các Hội Thánh có thể được xem xét theo ba chiều kích 1.) Về mặt thực tế Đây là những bức thư thật với những nan đề thật.  2.) Về mặt tiên tri Các thư tín nầy phác họa ra Hội Thánh ở những chặng đường khác nhau trong lịch sử Hội Thánh.  Hội Thánh Lao-đi-xê phác họa tình trạng Hội Thánh vào khoảng năm 1900SC cho đến Sự Cất Lên. Đây là Hội Thánh rất lớn mà chúng ta đang nhìn thấy trong thế gian ngày nay.  Đây là Hội Thánh bội đạo.  3.) Về mặt cá nhân Các thư tín nầy nói tới từng Cơ đốc nhân và tới từng Hội Thánh nào đọc chúng. Chúng có một lời cho bạn trong vai trò một cá nhân và chúng có một lời cho chúng ta trong vai trò một hội chúng.
            Nếu chúng ta muốn hiểu rõ lời lẽ của Chúa cho Hội Thánh nầy, một ít lai lịch về Lao-đi-xê phải có trong trình tự ấy.
+ Thành phố nầy do Antiochus II sáng lập trước năm 253TC. Thành nầy được đặt theo tên vợ của ông ta Laodice (Lao-đi-xê).
+ Thành phố nằm trên cùng cao và được bảo đảm tránh cuộc tấn công của kẻ thù.
+ Vấn đề phòng thủ duy nhứt ở Lao-đi-xê là sự thực chẳng có một nguồn nước nào sẵn có trong thành cả.  Nước phải chuyền dẫn từ những cống dẫn nước. Nước chảy từ những dòng suối nước nóng ở Hierapolis ở phía Bắc cách 6 dặm đã được dẫn vào thành phố.  Nước cũng được dẫn đến từ thành Côlôse, nằm cách 10 dặm về phía Đông. Sự thực nầy rất là quan trọng khi chúng ta bước vào phân đoạn.
+ Lao-đi-xê đã bị hủy diệt bởi một trận động đất vào năm 61SC. Thành phố vốn giàu có và tự mãn đến nỗi họ đã tái thiết lại thành phố của họ với những tài nguyên của chính họ, từ chối một sự tài trợ đến từ Caesar.
+ Thành phố vốn nổi tiếng trong thời ấy về ba đặc điểm chính sau đây:
1. Về tài chính Đây là trung tâm ngân hàng và tài chính, được biết qua Đế Quốc Lamã vì sự giàu có và thế lực tiền tài của nó. 
2. Thời trang Thành nầy nổi tiếng vì loại len mềm, màu đen được sản xuất ở đây. Loại len nầy được xem là một thứ xa xỉ, người ta tìm kiếm nó để may mặc và dệt thảm. Lao-đi-xê là trung tâm thời trang vào thời buổi ấy. Nhiều kiểu mới nhất đã xuất hiện ở đây trước tiên.
3. Dược phẩm Có một trường y nổi tiếng ở Lao-đi-xê, chuyên sản xuất thuốc viên được bán khắp cả Đế quốc Lamã. Loại thuốc viên nầy khi được đem chà nát, trộn với nước thành thứ bột nhão. Bột nhão nầy xức vào mắt và được xem là chữa lành nhiều nan y về mắt.
            Với lai lịch nầy trong trí, chúng ta hãy nhìn vào mấy câu nầy và xem xét lời lẽ xét đoán của Chúa chúng ta và lời cảnh cáo dành cho Hội Thánh nầy. Tôi nghỉ mấy câu nầy đặc biệt có liên quan tới thời buổi của chúng ta, vì các Hội Thánh giống như Hội Thánh Lao-đi-xê, và những ai tự nhận mình là Cơ đốc nhân song họ lại có lý trí của người Lao-đi-xê, đầy dẫy trong thế giới của chúng ta.
            Chúa Jêsus đã đến với Hội Thánh thế lực, giàu có nầy, và Ngài đã phán với họ: Lao-đi-xê ơi, người làm ta phát ốm rồi! Chúng ta hãy lấy câu nói ấy làm đề tựa hôm nay rồi tìm thấy lý do tại sao Ngài phán như thế với số người nầy. Chúng ta cũng tìm xem có lời nào cho Hội Thánh của chúng ta và cho chúng ta trong vai trò những cá nhân hay không!?!
I. CÁC NAN ĐỀ Ở LAO-ĐI-XÊ (các câu 14-17)
(Minh họa: Chúa Jêsus đến với Hội Thánh nầy mà chẳng có một lời khen ngợi nào hết. Khi Ngài xem xét mọi việc làm và đường lối của họ, Ngài chẳng có gì tốt để nói với họ cả.  Ngài chỉ đến với họ rồi đưa ra các nan đề y như Ngài nhìn thấy chúng).
A. Nan đề của cải (câu 14) Hãy chú ý từ ngữ Hội Thánh CỦA người Lao-đi-xê. Nếu bạn chịu khó dành ra một phút để nhìn vào từ câu của các thư tín khác trong Khải huyền 2 và 3, bạn sẽ thấy những câu như: Hội Thánh CỦA hay TRONG…, và kế đó là tên của thành phố. Ở các thành khác, ấy là Hội Thánh của Chúa trong thành phố ấy. Còn ở Lao-đi-xê, ấy là Hội Thánh của họ, chớ không phải Hội Thánh của Chúa! Ngài xác định nan đề của cải. Đây là Hội Thánh của họ và họ đã sinh hoạt theo như họ thích, chớ không hướng theo ý muốn của Chúa.
            (Lưu ý: Chúng ta đừng quên lý do tại sao Hội Thánh tồn tại. Ấy chẳng phải cái bục giảng khiến cho chúng ta được biết đến trong thế giới của chúng ta đâu. Ấy chẳng phải là một diễn đàn cho chúng ta biểu dương ý tưởng hay chương trình nghị sự của mình đâu. Ấy chẳng phải là nơi chúng ta có thể “điều hành” hay “thống trị”. Hội Thánh nầy không phải là “Hội Thánh của chúng ta”; ấy là Hội Thánh của Ngài! 
            Chúa Jêsus đã chịu chết vì Hội Thánh. Ngài đã mua Hội Thánh bằng chính huyết của Ngài, Công Vụ các Sứ đồ 20:28. Ngài đã xây dựng và nâng đỡ Hội Thánh, Mathiơ 16:18-19; Êphêsô 2:19-22. Hội Thánh tồn tại vì sự vinh hiển của Ngài. Chúng ta có mặt ở đây vì Ngài và chỉ một mình Ngài mà thôi! Bổn phận của chúng ta là rao giảng Ngài; ngợi khen Ngài; tôn vinh Ngài; và công bố Ngài.
            Đây chẳng phải là Hội Thánh của bạn đâu! Đây chẳng phải là Hội Thánh của tôi! Đây là Hội Thánh của Ngài! Ngài sở hữu nó và Ngài đang tể trị nó. Chúng ta chẳng cần Chúa nào khác trừ ra Chúa Jêsus. Không một người nào, không một nhóm người nào và chẳng có một hội chúng nào xứng đáng chiếm lấy chỗ của Ngài. Minh họa: Chúng ta chẳng cần tới một người nào giống như Đi-ô-trép – III Giăng 9. Chúng ta phải gìn giữ Hội Thánh nầy và chức vụ nầy tựu trung vào Ngài!)
B. Nan đề về tình cảm (câu 15a) Chúa Jêsus nói cho họ biết, giống như nguồn nước trong thành phố của họ, họ đã trở nên hâm hẩm. Có nhớ nan đề nước mà tôi đã nói ở trên không? Nước từ các dòng suối nước nóng ở Hierapolis cách 6 dặm được dẫn về thành phố qua các ống dẫn. Khi đến lúc nước tới tại Lao-đi-xê, nước ấy chẳng còn nóng nữa; nó đã hâm hẩm rồi. Dòng nước lạnh chảy từ thành cũng được chuyền dẫn tới đây; khi nó tới thành Lao-đi-xê, dòng nước nầy cũng hâm hẩm luôn. Dòng nước âm ấm, hâm hẩm nầy đưa sự tươi mát đến trong nổi khó khăn của Lao-đi-xê.
            Hội Thánh cũng trở nên hâm hẩm. Điều nầy có ý nói rằng họ đã đánh mất tình cảm của họ đối với những vụ việc của Chúa. Họ đã trở nên dửng dưng và hờ hững. Họ đã đạt tới một chỗ mà ở đó họ nếm trải nhiều động lực, song họ lại chẳng chút cảm động đối với những vụ việc của Chúa. Rõ ràng, họ đã dửng dưng đối với thập tự giá của Chúa Jêsus; Lời của Đức Chúa Trời; và tình trạng con người bị hư mất ở quanh họ. Những người nầy không có sự nóng cháy với tình cảm dành cho Chúa Jêsus, họ cũng không hoàn toàn dãy chết và nguội lạnh. Họ đã ở giữa chừng đâu đó. Tình trạng của họ khiến cho Chúa Jêsus phải phát ốm!
(Lưu ý: Há đây chẳng phải là tình trạng của Hội Thánh hiện đại sao? Người ta đang nếm trải nhiều động lực, song chẳng có một sự nóng cháy nào đối với những vụ việc của Chúa hết!
            Dân sự Hội Thánh trong thời của chúng ta không còn bị thập tự giá tác động nữa rồi! Họ đọc về sự Chúa bị đóng đinh trên thập tự giá, họ nghe nói về sự ấy, và họ ngồi yên bất động! Dân sự Hội Thánh trong thời của chúng ta đã bất động trước hoàn cảnh tuyệt vọng của kẻ bị mất! Họ biết người ta đang bị mất và họ biết kẻ bị mất kia sẽ đi Địa Ngục; nhưng họ thực sự chẳng quan tâm. Họ nói: “Điều ấy khủng khiếp đấy, tôi ao ước họ sẽ được cứu”. Thế nhưng, họ chẳng cầu nguyện hay làm chứng; họ không quan tâm!
            Hội Thánh trung bình trong thời của chúng ta là một bài học về sự dửng dưng! Họ chưa chết vì họ đang cầu nguyện, giảng đạo, ca hát, v.v… Nhưng, chính xác thì họ cũng chưa ở trên ngọn lửa nữa. Chẳng có một sự phấn khích và không chút tình cảm nào về họ phục vụ Ai, họ nghe cái gì, và họ đang làm gì nữa.  Họ ở đâu đó giữa đường. Đấy là chỗ mà Hội Thánh hiện đại đang ở! Người ta bước vào nhà thờ, lấy chỗ ngồi, khoanh tay mình lại rồi nói: “Hãy chúc phước cho tôi nếu bạn có thể!” Họ không cảm thấy nhu cần  phải đến với bàn thờ mà cầu nguyện. Họ không hề cảm thấy nhu cần phải làm chứng. Họ không hề cảm thấy nhu cần phải làm cái gì đó, họ chỉ đến rồi đi. 
            Bạn nghe thế nào về Chúa Jêsus; tình yêu của Ngài dành cho linh hồn bạn; sự chết của Ngài vì bạn và mọi sự Ngài đã làm cho bạn và cứ ngồi yên đấy sao? Bạn nhìn biết Ngài thế nào và vẫn không lay động bởi mối quan hệ ấy sao?
            Chắc chắn tôi không mong mọi người đáp ứng giống như tôi sẽ đáp ứng; nhưng tôi nghĩ sẽ có một số dấu hiệu nào đó về sự sống chứ; một chút tình cảm nào đó tỏ ra; một dấu vết nào đó cho thấy tâm hồn cảm động bởi lời của Đức Chúa Trời, Thánh Linh của Đức Chúa Trời và công việc của Đức Chúa Trời. Đâu là tình cảm của chúng ta đối với những vụ việc của Chúa chứ?
            Có một số nan đề chính với một Hội Thánh đạt tới điểm nầy:
1. Đây là loại Hội Thánh khó chịu nhất đối với Mục sư. Người ta tin đúng đấy; họ bước vào trong rồi đi ra khỏi nhà thờ; nhưng họ rất dửng dưng. Họ đã nghe hết mọi sự và hoàn toàn bất động về mọi sự ấy.  Loại dửng dưng nầy rất khó nắm lấy! Tôi muốn có một nhà thờ lạnh như băng, dưới đó Chúa có thể nhen lại một ngọn lửa thuộc linh; hay một nhà thờ có nhiều người sốt sắng, Chúa có thể làm dịu đi một chút để tôi phải cố gắng dạy dỗ một nhóm người nào đó được thỏa lòng! Bạn không thể day động họ được đâu!
2. Đây là loại Hội Thánh khó chịu nhất chẳng cảm động vì cớ Chúa. Họ chẳng quan tâm! Nếu có ai được cứu, tốt thôi. Nếu họ không được cứu, điều đó cũng tốt thôi. Nếu bài giảng hay, tốt thôi! Nếu không hay, được rồi, điều đó cũng OK thôi. Đấy là thái độ hiện có đó!
3. Loại Hội Thánh nầy xuyên tạc Chúa. Chúa Jêsus là một Nhân Vật rất tình cảm! Ngài đã đứng trên ngọn lửa và điều đó tỏ ra trong đời sống và chức vụ của Ngài. Các môn đồ của Ngài là hạng người rất tình cảm và họ đã sống những đời sống nóng cháy với tình cảm dành cho Chúa Jêsus. Khi chúng ta sống dửng dưng, bất động và chẳng quan tâm, lối sống ấy cung ứng một ấn tượng giả dối về Chúa Jêsus và những điều Ngài muốn nói tới!) 
(Lưu ý: Cho phép tôi nói điều nầy và tôi sẽ tiếp tục: có một số việc mà bạn không thể dửng dưng với chúng được! Sự dửng dưng và hờ hững không là tùy chọn khi phải đến với Đức Chúa Jêsus Christ! Không một ai muốn làm hòa lại với Đức Chúa Trời, có thể bước qua đồi Gôgôtha rồi nhìn thấy Chúa đổ máu ra, gục ngã và dãy chết, mà cứ bất động được. 
            Không một ai có thể nghe thấy những lời xưng nhận của Đấng Christ mà đi nước đôi được! Ngài xưng Ngài là Đức Chúa Trời ở trong loài xác thịt! Ngài xưng Ngài là Cứu Chúa duy nhứt! Ngài đưa ra lời xưng nhận tuyệt đối với đời sống của bạn và của tôi! Không một ai có thể bước đi ở giữa đường khi phải đến với Chúa Jêsus! Một là bạn sống cho Ngài, hoặc bạn chống nghịch Ngài! Một là bạn phải tiếp nhận Ngài hoặc bạn phải ném đá Ngài!
            Minh họa: C.S. Lewis từng nói: “Người nào là con người và nói ra loại sự việc mà Chúa Jêsus đã phán sẽ chẳng phải là vị giáo sư lỗi lạc về đạo đức đâu. Người ấy, một là kẻ dở hơi – ở cùng cấp độ với một người nói mình là quả trứng luộc – hoặc người ấy sẽ là ma quỉ của địa ngục. Bạn phải đưa ra sự lựa chọn của mình. Một, đây đã và đang là Con của Đức Chúa Trời, hoặc là một kẻ điên hay thứ gì đó tệ hại hơn. Bạn có thể buộc Ngài phải im lặng vì là kẻ điên hay bạn có thể sấp mình xuống nơi chơn của Ngài rồi gọi Ngài là Chúa và Đức Chúa Trời. Nhưng chúng ta đừng nên đến với bất kỳ ý tưởng cho Ngài là một giáo sư con người lỗi lạc được. Ngài không để điều đó rộng mở cho chúng ta”).
C. Nan đề về nhận thức (câu 17) Khi dân sự tại Lao-đi-xê nhìn lại bản thân họ, họ thấy Hội Thánh thật trọn vẹn. Họ sống giàu có, thế lực và họ cảm thấy họ có mọi sự họ cần. Họ nhìn vào địa vị, của cải và thế lực của họ, họ nói: Chúng ta giàu rồi!”  Họ ngồi đó, dửng dưng, hờ hững, bất động và họ nghĩ họ đang ở trong cái khuôn quá tốt.
            Nan đề với thái độ nầy, ấy là thái độ ấy dựa trên sự mù lòa. Chúa Jêsus nói cho họ biết rằng họ hoàn toàn sai lầm về những gì họ có và chỗ họ sinh sống. Chúng ta sẽ nhìn vào lời của Ngài nói với họ trong một phút xem. Bây giờ, chúng ta cần phải nhớ rằng chúng ta nhìn thấy bản thân mình thế nào và Ngài nhìn thấy chúng ta thế nào, có thể là hai việc khác nhau đấy.
(Lưu ý: Buồn thay, nhiều Hội Thánh đã giàu có ở đây hôm nay. Có nhận định cho rằng họ rất giàu có. Nếu bạn bước vào một Hội Thánh trung bình hôm nay và nói cho họ biết rằng họ cần sự phấn hưng, họ sẽ bị mất lòng đấy. Nếu bạn khích lệ họ phải nóng cháy cho Đức Chúa Trời, họ sẽ nói: “Hãy nhìn vào chúng tôi và mọi sự chúng tôi đang có đây! Chúng tôi đang sinh hoạt rất tốt và chúng tôi chẳng cần gì nữa!
            Tôi nguyện rằng chúng ta không nên đạt tới mức độ đó! Sự thật đáng buồn, ấy là có người rất phấn khích về tiền bạc trong nhà băng hơn là họ phấn khích về linh hồn bên bàn thờ. Họ băn khoăn về số lượng lớn trong ban trị sự hơn là họ băn khoăn về sự thờ phượng Chúa chơn thật. Họ được phước nhiều bởi những gì họ đang có hơn là bởi Chúa tỏ ra và cảm động trong buổi thờ phượng! Chúng ta nhìn thấy bản thân mình như thế nào? Ngài nhìn thấy chúng ta ra sao?
            Tôi sẽ nói cho bạn những gì chúng ta có cần hơn là tiền bạc; nhiều hơn đám dân đông; nhiều hơn những ngôi nhà thờ; nhiều hơn sự công nhận trong cộng đồng; nhiều hơn những việc mà chúng ta đang xem trọng, xem là có giá trị lớn lao: chúng ta cần Chúa Jêsus và chúng ta cần những gì Ngài có thể làm cho chúng ta! Tôi muốn có Ngài, sự hiện diện của Ngài và quyền phép của Ngài hơn bất cứ thứ vật chất nào mà bạn có thể liệt kê ra! Chúng ta cần đến Ngài! Chúng ta phải tìm kiếm Ngài! Chúng ta phải tiếp nghinh Ngài! Chúng ta phải thờ lạy Ngài!
            Minh họa: Theo một phương thức nào đó thì Hội Thánh giống như một chiếc phi cơ kia. Máy bay nói tới một phương tiện giao thông không có bộ thắng. Khi chiếc máy bay thôi không bay tới đàng trước, nó khởi sự rơi xuống! Cũng thật như thế đối với một Hội Thánh. Khi một Hội Thánh thôi không tiến tới đàng trước nữa; khi Hội Thánh mất đi mặc khải của nó; khi Hội Thánh thôi không còn cảm xúc chi về Chúa Jêsus và những gì Ngài có thể làm cho họ; họ đã hướng vào một phi đạo gồ ghề! Tôi nói như thế một lần nữa: Chúng ta cần đến Ngài!)
I. Các nan đề ở Lao-đi-xê
II. ĐƠN THUỐC CHO LAO-ĐI-XÊ (các câu 14-19)
(Minh họa: Hội Thánh nầy đang gặp rắc rối, nhưng không phải mọi hy vọng đã mất hết đâu. Có hy vọng đấy! Chúa Jêsus đến để ban cho họ phương chữa lành của Ngài dành cho bịnh tật của họ).
Phương chữa lành của Ngài đến trong hình thức …
A. Một phong thái thiêng liêng (câu 14) Hãy chú ý cách thức Chúa Jêsus đến với Hội Thánh sai lạc nầy.
1. Ngài đến như Đấng phê chuẩn Ngài đến như Đấng Amen. Đây là một từ Hybálai có ý nói:Đúng như thế; chắc sẽ được như vậy. Từ ngữ nầy được sử dụng để bày tỏ ra ý tưởng trung tín và sự chơn thật, Êsai 65:16; Phục truyền luật lệ ký 7:9
            Khi chúng ta sử dụng từ ngữ nầy để kết thúc lời cầu nguyện của chúng ta, chúng ta đang nói: Chắc sẽ được như vậy! Khi chúng ta sử dụng từ ngữ ấy để đáp ứng với một sứ điệp, chúng ta đang nói Chắc sẽ được như vậy, hay thật như thế! Đây là một từ ngữ nói tới sự xác quyết và tính cách dứt khoát.
            Khi Chúa Jêsus đến với Hội Thánh nầy, Ngài đến như là lời sau cùng của Đức Chúa Trời cho nhân loại, Hêbơrơ 1:2. Ngài đến như Đấng khẳng định mọi lời hứa của Đức Chúa Trời, II Côrinhtô 1:20.
            Bất chấp Hội Thánh nầy thấy mình như thế nào, Chúa Jêsus đến để nói cho họ biết sự thật, Ngài đến để có lời nói sau cùng cho Hội Thánh Lao-đi-xê.
2. Ngài đến như Đấng đương diện Ngài cũng đến như Đấng làm chứng thành tín chơn thật. Hội Thánh nầy có sự mặc khải về bản thân mình đối với những gì thiếu sót. Chúa Jêsus muốn họ nhìn biết rằng Ngài biết rõ họ như họ vốn có và Ngài đã đến để tỏ ra tình trạng thật của họ. Sự làm chứng của họ về Ngài đã bị cong quẹo và Ngài đã đến đặng sửa ngay lại.
3. Ngài đến như Đấng Chủ Tể Ngài cũng được gọi là Đấng làm đầu cội rễ cuộc sáng tạo của Đức Chúa Trời. Điều nầy xác định Chúa Jêsus là Đấng Tạo Hóa và là Đấng Chủ Tể của muôn vật. Không một mảy bụi nào có thể di động trong vũ trụ mà không có phép của Ngài! Ngài đang nắm quyền tể trị. Ngài đến với một Hội Thánh tưởng mình đang điều khiển buổi trình diễn của chính mình. Chúa Jêsus đến để nhắc cho họ nhớ rằng bất chấp họ nghĩ gì, bàn tay của Ngài vẫn nắm lấy bánh lái và Ngài là Đấng tể trị Hội Thánh.
(Lưu ý: Điều nầy giúp cho chúng ta nhớ kỹ Chúa Jêsus là ai! Ngài vẫn là lời nói sau cùng của Đức Chúa Trời cho Hội Thánh. Ngài là Đấng biết chúng ta rõ hơn chúng ta biết mình. Ngài là Đấng đang nắm quyền tể trị, cho dù người ta có nghĩ gì đi nữa!)
B. Lời công bố thiêng liêng (các câu 15b-16) Ngài có một lời cho Hội Thánh nầy.
1. Ao ước của Chúa đối với Hội Thánh (câu 15b) Tình trạng về nước ở Lao-đi-xê được phản ảnh trong Hội Thánh. Khi nước chảy đến Lao-đi-xê, nó không còn có tính cách chữa bịnh của dòng nước nóng tuôn ra từ sông suối ở Heirapolis; nó cũng không cung ứng chất lượng tươi mát của dòng nước lạnh chảy đến từ thành Côlôse. Hai dòng nước đã nhạt nhẽo và không đáng mơ ước nữa.
            Chúa Jêsus nói cho Hội Thánh của Ngài biết rằng Ngài muốn họ một là nóng hay lạnh. Ngài muốn Hội Thánh của Ngài phải là một nơi mà dân sự có thể thư thả và tìm gặp ơn chữa lành, giống như một hành trình đến với suối nước nóng vậy. Ngài muốn Hội Thánh của Ngài phải là một nơi mà người ta có thể được làm cho tươi mới bởi sự thờ lạy Ngài và bởi sự hiện diện của Ngài. Hội Thánh đáng phải là một nơi chữa lành và nó đáng phải là một nơi có sự tươi mát. Tôi nghe nói về người của chúng ta mô tả Hội Thánh nhà là một ốc đảo.  Tôi thích như thế!
2. Sự chán ghét của Chúa đối với Hội Thánh (câu 16) Vì cớ tình trạng của họ, Chúa nói cho họ biết Ngài sẽ nhả ngươi ra khỏi miệng ta. Từ ngữ nhả là một từ ngữ rất mạnh mẽ. Nó có ý nói:mửa ra, khạc ra. Từ ngữ Hylạp là emeo. Chúng ta có được từ ngữ emetic trong tiếng Anh từ chữ ấy. Một sự buồn nôn” (emetic) là một cảm xúc khiến bạn muốn khạc nhổ ra. Thí dụ, ipecac là thứ thuốc giục nôn mửa trong các trường hợp ngộ độc, v.v… (Minh họa: nước trộn sulphur hâm hẩm).
            Chúa Jêsus nói cho Hội Thánh nầy biết rằng, giống như khi uống thứ nước hâm hẩm, chúng khiến cho Ngài muốn mửa họ ra khỏi miệng của Ngài. Cái điều Ngài muốn nói là đây: Ngài không thể và sẽ không dung chịu tình trạng dửng dưng và hờ hững của họ! Tôi không muốn mình là một chi thể trong bất cứ Hội Thánh nào đem lại sự chán ghét cho Chúa chúng ta!
3. Sự Chúa mô tả về Hội Thánh nầy (câu 17) Theo câu 17, họ tưởng họ có mọi sự rồi. Ngài nhìn vào họ và nói cho họ biết họ chẳng có chi hết!
            Họ rất tự hào về những thành tựu của họ. Chúa Jêsus gọi họ què quặt, có ý nói khổ sở; và khốn khó, có ý nói đáng thương hại.
            Họ rất tự hào về sự giàu có của họ. Chúa Jêsus nói cho họ biết họ rất nghèo ngặt. Từ ngữ nầy có ý nói: túng thiếu và phải đi ăn mày.
            Họ rất tự hào về mặc khải của họ đối với bản thân họ. Chúa Jêsus nói cho họ biết rằng họ đui mù.  Họ không thể nhìn thấy bản thân họ y như họ vốn có. Có người nói: Chẳng có ai đui mù một khi người ấy không nhìn thấy”.
            Họ rất tự hào về thời trang và cách ăn mặc đẹp đẽ của họ. Chúa Jêsus nói cho họ biết rằng họ lõa lồ. Họ hoàn toàn bị phơi ra và bị vạch ra những gì họ vốn có. (Minh họa: Bị lõa lồ trong xã hội thời ấy hoàn toàn là sự sỉ nhục. Giờ đây, đó là một huy hiệu vinh dự!)
C. Một quảng bá thiêng liêng (các câu 17-18) Chúa Jêsus nói cho Hội Thánh nầy biết chính xác họ có thể tìm được mọi sự họ có cần.
1. Hãy đến vì giá trị thuộc linh Nếu họ chịu đến với Ngài, đặt Ngài ở trước hết và sống theo Lời của Đức Chúa Trời, họ sẽ biết được những sự giàu có thật. Ngài kêu gọi họ nên nhắm vào “tiêu chuẩn vàng thuộc linh” và tỏ ra đức tin chơn thật trước một thế giới bị hư mất. Họ sẽ nhìn thấy sự giàu có của họ biến mất đi ở đây, nhưng họ sẽ đặt của cải ở đàng kia, Mathiơ 6:19-21; I Phierơ 1:3-5.
2. Hãy đến vì bộ y phục thuộc linh Ngài mời họ tự trang sức mình bằng y phục thuộc linh. Đây là lời mời gọi đến với Ngài để được cứu. Họ bị lõa lồ và hư mất trong tội lỗi của họ. Nếu họ chịu đến với Ngài, Ngài sẽ mặc cho họ bằng thứ áo xống công bình và họ sẽ không còn bị lõa lồ, bị phơi ra trước mắt Đức Chúa Trời nữa, Êsai 61:10; Khải huyền 19:8.
3. Hãy đến vì sự mặc khải thuộc linh Ngài mời họ đến với Ngài để Ngài có thể phục hồi lại sự mặc khải thuộc linh của họ. Khi mặc khải thuộc linh ấy được phục hồi, họ sẽ có khả năng nhìn thấy bản thân mình y như họ vốn có và họ sẽ có thể nhìn thấy Ngài y như Ngài vốn có vậy. Điều nầy sẽ dẫn tới sự ăn năn, sự vâng phục và sự phục vụ khiêm nhường. Chúng ta cần sự mặc khải thuộc linh đó!
            Tại sao người ta dãy chết, khô khan, và dửng dưng về mặt thuộc linh? Vì họ không thể nhìn thấy bản thân mình hay Chúa thực sự vốn có như thế nào! Chúa Jêsus có thể mở mắt mù lòa ra, II Côrinhtô 4:4; Luca 4:18.
D. Một lời khuyên thuộc linh (câu 19) Chúa Jêsus mời họ đến với Ngài, khi ấy Ngài ban cho họ một lời khuyên có cần rất nhiều.
1. Một lời thương xót – “Phàm những kẻ Ta yêu” – Bất chấp tình trạng họ dửng dưng đối với Ngài, Ngài vẫn yêu thương họ! Đúng là một phước hạnh! Chúa Jêsus không gạt bỏ người ta khi họ không làm cho Ngài đẹp lòng, nhưng Ngài kêu gọi họ và tiếp tục yêu thương họ thậm chí họ chối bỏ Ngài và tình yêu của Ngài.
2. Một lời cảnh cáo – “Ta quở trách sửa phạt” – Chúa Jêsus nói cho họ biết, và chúng ta nữa, vì cớ Ngài yêu chúng ta như chúng ta vốn có đây, Ngài yêu chúng ta nhiều đến nỗi không để cho chúng ta như chúng ta vốn có đây. Với một nổ lực bắt lấy sự chú ý của chúng ta, Ngài sẽ sử dụng hai phương pháp để xây chúng ta lại với Ngài.
            Thứ nhứt, Ngài sẽ quở trách. Từ ngữ nầy có ý nói thuyết phục, hay điều chỉnh. Ngài sẽ phán với chúng ta trong tình trạng của chúng ta. Ngài sẽ gửi Lời của Ngài đến và Ngài sẽ thuyết phục chúng ta trong tấm lòng chúng ta qua chức vụ của Đức Thánh Linh, Giăng 16:7-11. Nếu chúng ta đến với Ngài, Ngài sẽ tiếp nhận chúng ta. 
            Nếu chúng ta thất bại không tiếp lấy lời quở trách của Ngài, Ngài sẽ sử dụng thêm các phương pháp trực diện. Từ ngữ sửa phạt có ý nói chỉnh đốn với đòn vọt. Ngài có thể chạm đến bất kỳ lãnh vực nào trong cuộc sống để lôi kéo sự chú ý của chúng ta; thậm chí Ngài sử dụng đến sự chết nữa, I Côrinhtô 11:30.
            Người nào từ chối không bước theo đường lối của Đức Chúa Trời sẽ gặp rắc rối trong đời sống của họ, Châm ngôn 13:15; Giêrêmi 2:19; Châm ngôn 15:10.
3. Một lời khuyên lơn – “vậy, hãy có lòng sốt sắng và ăn năn đi – Từ ngữ sốt sắng cung ứng cho chúng ta chữ zesty. Chữ nầy có ý nói đến với nồi nước sôi. Chúa Jêsus đang kêu gọi Hội Thánh nầy phải nóng cháy vì Ngài. Khi họ nhìn thấy nhu cần của họ mà xây lại với Ngài, việc ấy tự tỏ ra trong sự ăn năn chơn thật. Hãy nhớ, ăn năn có thể được xác định như một sự đổi ý kết quả trong một sự đổi hướng. Nếu Lao-đi-xê chịu ăn năn, họ sẽ đạt tới chỗ sống cho Chúa và có được sự hiện diện của Ngài trong Hội Thánh của họ. Họ sẽ bị cảm động bởi thập tự giá và bởi sự khốn khó của hạng tội nhân bị hư mất.
(Lưu ý: Chúng ta cần phải lắng nghe và chú ý đến tiếng phán của Chúa trong thời buổi nầy, và cần phải ăn năn. Chúng ta cần phải cầu hỏi Chúa khiến cho chúng ta nhìn thấy bản thân mình y như chúng ta vốn có vậy. Chúng ta cần phải nhìn thấy Ngài y như Ngài vốn có vậy. Chúng ta cần phải “đến với nồi nước sôi”; phải nóng cháy vì Ngài và ăn năn về tình trạng dửng dưng, hờ hững, về sự thiếu tin quyết và quan tâm của chúng ta. Đức Chúa Trời có thể vùa giúp chúng ta để đến với Ngài trước khi sự phán xét của Ngài giáng trên chúng ta, I Phierơ 4:17).
I. Nan đề ở Lao-đi-xê
II. Đơn thuốc cho Lao-đi-xê 
III. CÁC LỜI HỨA CHO LAO-ĐI-XÊ (các câu 20-21)
(Minh họa: Chúa chúng ta kết thúc thư tín nầy với một số lời hứa thật sự phước hạnh. Sự thật đáng buồn, ấy là Lao-đi-xê đã trục xuất Đức Chúa Jêsus Christ ra khỏi nhà thờ của họ. Ngài đứng ở ngoài cửa đang tìm cách được nhận vào lại).
A. Một lời hứa trong hiện tại (câu 20a) Ngài phán: Ta đứng ngoài cửa mà gõ – Trong nổ lực của Ngài để vào lại trong Hội Thánh nầy, Chúa Jêsus đứng ở đó mà gõ. Các động từ nầy ở trong thì hiện tại. Câu nầy có thể được nói như sau: Nầy, tôi đang đứng mãi ngay cửa đây, và ta cứ gõ cửa mãi thôi …. Ngài không hề bỏ đi mọi nổ lực của Ngài hầu bước vào trong đời sống của những kẻ Ngài yêu mến. (Minh họa: Tôi rất vui sướng một khi Ngài không hề nhượng bộ đối với tôi!)
B. Một lời hứa riêng tư (câu 20b) nếu ai nghe tiếng ta mà mở cửa cho …” Chúa Jêsus không cần cả Hội Thánh phải nóng cháy để Ngài có thể bước vào trong; Ngài chỉ cần một người lắng nghe Ngài và chịu mở cửa. Chúa Jêsus là một nhân vật cao thượng! Ngài sẽ gõ và Ngài sẽ kêu gọi, nhưng Ngài sẽ không phá cánh cửa đâu. Cánh cửa ấy phải được mở ra do một hành động của ý chí. 
(Minh họa: Holman Hunt vẽ rất nổi tiếng, bức họa mô tả Chúa Jêsus đang đứng ngoài cửa với ngọn đèn trong tay Ngài. Ngài đang gõ trên cánh cửa. Khi bức họa ấy được in ấn lần đầu tiên, có một người nhìn vào đấy rồi than phiền với viên họa sĩ: “Ông phạm một sai lầm”.  Holman Hunt nói: “Sai lầm ở chỗ nào?” Người kia đáp: “Ông quên vẽ tay cầm ở ngoài cửa”. Hunt đáp: “Chẳng có sai sót gì đâu. Cái tay cầm nằm ở bên trong. Chúa Jêsus gõ cửa, nhưng ông phải mở cửa ra!”)
C. Một lời hứa quí báu (câu 20c) ăn bữa tối với người, và người với ta Người Hylạp cổ có ba bữa ăn. Họ thường ăn điểm tâm thật no, bữa ăn trưa ít hơn một chút, và rồi bữa ăn tối thong thả, bữa ăn mà họ gọi là bữa ăn tối. Ở bữa ăn tối nầy, cả gia đình sẽ dành thì giờ, nói chuyện và tương giao. Đây là thì giờ mật thiết dành cho gia đình. Chúa Jêsus phán: Nếu ngươi chỉ mở cửa ra, ta sẽ bước vào và có sự tương giao với ngươi!
(Lưu ý: Bạn có thể trở thành thuộc viên của một Hội Thánh khô khan, đang dãy chết, nhưng bạn không thể để mình theo cách ấy được. Nếu bạn chịu mở cửa cho Chúa Jêsus, Ngài sẽ vào cùng bạn. Bạn sẽ có sự phấn hưng trong đời sống của mình đang khi nhiều người khác đang ngồi quanh trong sự khô chết và hờ hững kia. Đừng đổ thừa tình trạng khô hạn của mình cho người khác; hãy mở cửa ra rồi mời Chúa Jêsus ngự vào!)
D. Một lời hứa đầy năng lực (câu 21) Câu nầy là một lời hứa cho thấy mọi lợi ích của ơn cứu rỗi sẽ được trao cho người nào thắng. Người trở lại đạo sẽ được đồng hóa với Chúa Jêsus; Cha của Ngài ở trên trời và Quê Hương thiên thượng của Ngài. Người nào đến với Chúa Jêsus được hứa cho rằng họ sẽ đồng trị với Ngài và vui mừng với Ngài trên thiên đàng của Ngài một ngày kia. Đấy là một lời hứa đầy quyền lực!
            Khi Chúa Jêsus phán với Hội Thánh ở Lao-đi-xê, Ngài đang phán với một Hội Thánh đầy dẫy với hạng người bị hư mất. Ngài đang mời họ để họ được cứu và mọi lời hứa của Ngài ban cho họ khiến cho sự đến với Chúa Jêsus ra có giá trị.
            (Lưu ý: Tôi rất vui sướng vì Ngài đã trao cho tôi sự ban hiến ấy một ngày kia, và tôi rất vui sướng khi Ngài đã ban ân điển cho tôi để tiếp nhận Ngài. Bạn đã được cứu chưa? Bạn có thể được cứu nếu Ngài đang kêu gọi bạn hãy đến với Ngài!)
Phần kết luận: Sứ điệp nầy tìm gặp bạn ở đâu vậy?  Có phải bạn đã được cứu bởi ân điển Ngài không? Có phải bạn sốt sắng và phục theo Chúa và công việc của Ngài không? Hay, có phải bạn sống dửng dưng và hờ hững đối với những vụ việc của Chúa? Có phải bạn nghe thấy tiếng gọi của Ngài:Nầy, ta đứng ngoài cửa mà gõ; nếu ai nghe tiếng ta mà mở cửa cho, thì ta sẽ vào cùng người ấy, ăn bữa tối với người, và người với ta. Có phải cánh cửa đang rộng mở không? Có phải nó cần được mở ra không? Ngài muốn mối tương giao của chúng ta với Ngài; có phải Ngài đang có mối tương giao ấy không?